Home / Ngữ văn / Bình giảng bài thơ "Tống biệt hành" của Thâm Tâm

Bình giảng bài thơ "Tống biệt hành" của Thâm Tâm

Bình giảng bài thơ "Tống biệt hành" của Thâm Tâm – Bài làm 1

Thơ mới chỉ có hai cuộc tiễn đưa đặc biệt: một của Thế Lữ – “Giây phút chạnh lòng” và một nửa của Thâm Tâm – “Tống biệt hành”. Còn thì chỉ là những cuộc biệt ly thông thường, cuộc chia tay giữa người tình với người tình, giữa người thân với người thân. Thương nhớ chỉ quẩn quanh nơi những không gian xa cách, những mối tình phôi pha…

Anh biết em đi chẳng trở về

Dặm ngàn liễu khuất với sương khe

Em đừng quay lại nhìn anh nữa

Anh biết em đi chẳng trở về.

(Thái Can – Anh biết em đi)

Tất nhiên, những khúc ly biệt ấy đều có những giá trị, những hấp dẫn. Nhưng ta càng biết quý những cuộc biệt ly của những tầm cao nhân cách.

Đó là những khúc biệt ly mang chất thẩm mỹ bi tráng.

Thế Lữ và Thâm Tâm đã cảm hứng từ cuộc tiễn đưa con người chí lớn, con người khát vọng cái cao cả – khát vọng lý tưởng nồng cháy:

Non nước đang chờ gót lãng du

Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu

Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc

Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ

Anh đi vui cảnh lạ đường xa

Đem chí bình sinh giải nắng mưa

Thân đã hiến cho đời gió bụi

Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ

(Giây phút chạnh lòng)

Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

Chí lớn chưa về, bàn tay không

Thì đừng bao giờ nói trở lại

Ba năm mẹ già cũng đừng mong

(Tống biệt hành)

Trong bi kịch, các nhân vật trữ tình này vẫn lồng lộng chất tráng ca.

Đó cũng chính là tâm hồn thời đại trong bối cảnh không khí thời đại.

Thuở ấy, những thanh niên trí thức, sinh viên học sinh đã cảm nhận được cái vô nghĩa của những nhân cách an phận, nhàn du nhỏ bé mà sau này, Chế Lan Viên viết:

Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp

Giấc mơ con đè nát cuộc đời con

Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp

Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn

Lương thiện đấy, nhưng không có nội dung!

Thậm chí, có những người “vô tư”

Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua lê

Lòng ta đã hóa thành rêu phong chuyện cũ.

(Chế Lan Viên)

Những con người nhỏ bé ấy đã đứng ngoài những cảm nhận về nỗi dân tộc đang trong gông xiềng nô lệ, về nỗi nhân dân đang đói khổ, đau khổ… Kiếp người cơm vãi cơm rơi, Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi…” (Tố Hữu), về nỗi những Chí Phèo đang lâm vào thảm trạng tha hóa, và đang bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện… (nhân vật của Nam Cao).

Có một tầng lớp thanh niên có học biết nặng lòng với đất nước, với nhân dân. Họ ưu tư, trăn trở trên đời sống chung của dân tộc. Nhưng nhìn quanh, họ chỉ thấy những bức tường bế tắc!

Thuở ấy, không khí thời đại ảm đạm lắm.

Một lá cờ Cần Vương phất cao với bao tâm huyết. Rồi từ Bắc chí Nam, Cần Vương đi vào thất bại. Những chiến sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục ra quân, những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… cũng lâm vào thất bại. Vận hội may mắn của cái dân tộc điêu linh này chưa tới? Rồi Việt Nam Quốc Dân đảng nồng nhiệt liều thân… cũng chỉ để lại một tiếng bom của Phạm Hồng Thái. Không thành công cũng thành nhân”…

Đúng như sau này, Chế Lan Viên viết:

Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời.

Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa

Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời.

Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ

Văn chiêu hồn từng giọt thấm mưa rơi…

Trong không khí thời đại ấy, những con người có học, có tâm huyết đã buồn. Ai đã chê Thơ Mới buồn? Thậm chí, ai đã cho Thơ Mới là bạc nhược? Hơn nữa, ai đã kết tội Thơ Mới là có lợi cho địch? Đến bây giờ, khi không khí của hai cuộc chiến tranh đã lùi xa, khi mọi lí lẽ đã được suy ngẫm, kiểm nghiệm, chúng ta mới biết sợ những thái độ “khoa học” chưa hoàn chỉnh này.

Xem thêm:  Giải thích câu tục ngữ: Cú kêu cho ma ăn

Chất buồn của Thơ Mới là chất buồn mang tầm cao thời đại. Đó là chất buồn nhân tính.

“Tống biệt hành” là khúc trữ tình buồn ấy, là khúc bi tráng ca của một tâm hồn non nước.

Đưa người ta không đưa qua sông,

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Trên bình diện nội dung công khai, đã có hai nhân vật trữ tình: người ra đi và người đưa tiễn. Rồi cả ở những đoạn thơ sau, vẫn là hai con người ấy:

Đưa người ta chỉ đưa người ấy

… Ta biết người buồn chiều hôm trước

… Ta biết người buồn sáng hôm nay

Nhưng có thật là có hai người không? Hay chỉ là một nhân vật trữ tình ở dạng phân thân? Hai con người này có những ranh giới nhập nhoạng mơ hồ, có khi chập vào nhau:” ”… tiếng sóng ở trong lòng” và “hoàng hôn trong mắt trong”; có khi ở trong nhau mà tự vấn:

Người đi? ừ nhỉ, người đi thật!

Đoạn thơ đầu, bằng thể thất ngôn cổ điển, bằng nghi vấn tu từ thể điệp… Thâm Tâm đưa ta vào một không khí Đường thi trang trọng. Ta chìm vào trong một trầm tư.

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình một dửng dưng…

Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,

Chí lớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

Như một hành động chọn lọc “…ta chỉ đưa người ấy” cuộc tiễn đưa bắt đầu đi vào chiều hoành tráng “một giã gia đình, một dửng dưng”. Tính cách thời đại xuất hiện. Con người ấy có dáng dấp Kinh Kha “Ai đồng chí trong đám người tiểu kỷ, Trên kinh thành lơ lửng một thanh gươm…” con người ấy mang phong thái chiến sĩ “Tráng sĩ một đi không trở về…”.

Cái chất lãng mạn hoành tráng này, về sau sẽ được tái diễn trong những vần thơ của Quang Dũng, Chính Hữu ở giai đoạn thơ thời đầu kháng chiến chống Pháp (1946-1947-1948):

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Nhớ đếm ra đi đất trời bốc lửa

Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng

Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm

Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…

(Ngày về – Chính Hữu)

Cao cả trác tuvệt như vậy mà ai lại dám bảo đó là những vần thơ “buồn rớt, mộng rớt… yêng hùng…” ai lại dám bắt “lột xác, nhận đường…”

Thâm Tâm đi bước thứ nhất, để cho Quang Dũng, Chính Hữu, đi bước thứ hai trong cảm hứng lãng mạn hoành tráng.

Ta biết người buồn chiều hôm trước

Vì sao người buồn? Không phải vì cuộc ra đi bịn rịn. Người buồn vì nỗi những nhân cách ở tầm thông thường không thể hiểu người. Đó là những “một chị, hai chị cũng như sen, khuyên nốt em trai dòng lệ sót”

Nỗi buồn ấy hiện ra trong buổi chiều.

Ta biết người buồn sáng hôm nay

Vì sao người buồn? Vì phải xa những tấm lòng trẻ thơ, xa những “em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc”. Nỗi buồn ấy lấy bối cảnh một ban mai rực rỡ (Trời chưa mùa thu tươi lắm thay) tương ứng hài hòa với ánh sáng tinh khôi trong mắt trẻ. Đó là thẩm mỹ của cái đẹp – buồn.

Người đi? Một dấu hỏi.

Ừ nhỉ, người đi thực!

Một trả lời trong cảm thán. Cũng có thể là một tự hỏi mình.

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Nhân vật bà mẹ đến đây mới thật sư xuất hiện. Trước, trong câu: Ba năm mẹ già cũng đừng mong, chỉ là một cách nói. Bi kịch của lòng mẹ là bi kịch của:

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến

Lá vàng thì ở trên cây

Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời

(Ca dao)

Chị thà coi như là hạt bụi

Đó là một câu tâm lý học. Các bà chị đã tự bằng lòng mình về việc thương em (Khuyên nốt em trai dòng lệ sót); bây giờ, lòng thành thanh thản.

Em thà coi như hơi rượu say

Thâm Tâm dành cho “em” cái ngôi kết thúc. Người tình của Dũng là nàng Loan (nhân vật của Nhất Linh), trong tiến đưa đã:

Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc

Dưa tiễn anh ra chốn hải hồ

Thế Lữ

Người tình của chàng trai chí lớn này thì, trong ly biệt, hoài niệm một chất nồng say đã được hưởng… Câu thơ không tiếc nuối, chỉ là man mác. Nó ngân vang tạo ra dư âm chung của toàn bài…

Sau 1945, Thâm Tâm cùng với dân tộc, đi vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp. Và anh đã chết cái chết đẹp của người chiến sĩ.

Phải chăng, bằng chính cuộc đời mình, Thâm Tâm đã thực hiện hóa cái giấc mơ của nhân vật trữ tình trong thơ mình?

Bình giảng bài thơ "Tống biệt hành" của Thâm Tâm – Bài làm 2

''Tống biệt hành" của Thâm Tâm có một sức ám ảnh rất mạnh, ai đã đọc một lần chắc không bao giờ quên giọng thơ gân guốc, rắn rỏi của nó. Nhưng bên ưong cái rắn rỏi ây, bài thơ lại râ't buồn, buồn mà không sụp xuống, cũng như dứt khoát, dửng dưng mà không vô tình. Bài thơ ngợi ca một người giã nhà ra đi theo chí lớn mà vẫn nặng lòng lưu luyến, bịn rịn với gia đình.

Bài thơ viết theo lời người đưa tiễn và từ quan sát cảm nhận, suy nghĩ của người tiễn mà khắc hoạ nên hình tượng của người ra-đi.

Bốn dòng đầu của bài thơ là cảm nhận xao xuyến ngỡ ngàng của người đưa tiễn trong phút tiễn đưa:

"Đưa người, ta không đưa qua sông,

Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?

Nắng chiều không thắm, không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong” .

Hai câu hỏi dạng "Không… sao có…" vừa có tác dụng phát hiện cái bất ngờ, vừa tô đậm tâm trạng và ấn tượng xảy ra trong cuộc tiễn đưa. Không phải cảm xúc dâng lên từ ngoại cảnh, hỏi ngoại cảnh làm gì có sông, và đã làm gì có hoàng hôn? Cũng không phải tình cảm xót xa khi tiễn đưa người bạn đi xa thông thường, khi tiễn bạn người ta thường khuyên bạn, chúc bạn, thương bạn, nơi góc bể chân trời, tự cảm thấy mình lẻ loi, cô độc, ở đây không có những tình cảm ấy, mà có những cảm xúc khác. "Tiếng sóng trong lòng" có thể là xao xuyến bồn chồn do một nguyên nhân nào đã biết trước, còn "đầy hoàng hôn trong mất trong" thì không phải là ánh mắt của người trượng phu lên đường. Người trượng phu xưa giã nhà theo chí lớn thường có điệu bộ khảng khái, tóc dựng xiên mũ, bước đi không ngoái lại như Kinh Kha xưa bên bờ sông Dịch trong Sử ki, hay như chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt trong "Chinh phụ ngâm"…

Chính cái cảm xúc và phát hiện mới lạ ấy đã làm nẩy ra ý thơ trong đoạn tiếp theo, như một lời giải thích:

"Đưa người, ta chỉ đưa người ấy.

Mộtgiã gia đình, một dửng dưng

Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,

Chí nhớn chưa về, bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại.

Ba năm mẹ già cũng đừng mong".

Đoạn thơ như nói lên niềm thất vọng của người tiễn: Không, ta không tiễn con người mắt đầy hoàng hôn này: "Ta chỉ đưa người ấy". Chữ "ấy” như muốn phân biệt với người này. Người ấy phải là con người kiên quyết, dửng dưng, đi theo chí lớn, theo bóng người trượng phu xưa, dám dấn thân "con đường nhỏ", chí nhớn chưa thành thì không nói chuyện trở lại "ba năm mẹ già cũng đừng mong!".

Xem thêm:  Đề liên hệ bài Sóng và Đây thôn Vĩ Dạ

Kí ức người tiễn liền nhớ lại tiền sử của ánh mắt hoàng hôn:

"Ta biết người buồn chiều hôm trước:

Bảy giờ mùa hạ sen nở nốt

Một chị, hai chị cũng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

Ta biết người buồn sáng hôm nay:

Trời chưa mùa thu tươi lắm thay,

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…”

Đây là một cuộc tiễn đưa khác, đầy bịn rịn và nước mắt thương tiếc trong gia đình. Tiễn đưa đầy tinh thần níu lại. Hai chị như sen cuối mùa hạ, khóc nốt dòng lệ sót, khóc đến giọt nước mắt cuối cùng. Nhà thơ không nói "hai chị", mà đếm "một chị, hai chị" như xét đến từng người. Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc như chưa hiểu việc gì đang xảy ra. Và ai là kẻ "Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay", anh hay em? Người ra đi hay người ở lại?

Nhưng người ra đi đã dứt áo ra đi:

Người đi ừ nhỉ, người đi thực!

Câu hỏi nêu ra như một điều không chắc chắn. Nhưng sự thực thì đã ra đi. Câu "Người đi thực" như khẳng định một điều mà giây phút trước đó có thể chưa phải là sự thực. Người trượng phu trong người ra đi đã trỗi dậy với tư thế kiên quyết đứt tình như tráng sĩ xưa:

"Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

Chị thà coi như là hạt bụi,

Em thà coi như hơi rượu say”

Mỗi chữ "thà" coi như một nhát dao sắc, chặt đứt tình cảm để ra đi. Có người nghĩ rằng ý nghĩ người ra đi như vậy có vẻ tàn nhẫn quá, nên muốn hiểu cho "tình cảm hơn", đã giải thích thành: "Xin mẹ hãy coi con như chiếc lá bay, xin chị coi em như hạt bụi, xin em coi anh như hơi rượu say". Mới xem tưởng hiểu như vậy có vẻ "nhân ái" hơn, nhưng không đúng. Bởi lẽ, muốn hiểu thế thì lời đó phải là lời của người ra đi, nhưng trong văn cảnh lại là ý nghĩ của người tiễn, con người muốn nhìn thấy một trượng phu! Hiểu như thế thì cần xem "em nhỏ ngây thơ" coi anh như “ hơi rượu say" một cách ngang tàng thật là vô lí, vì em đã biết gì đâu "hơi rượu say" mà cầu xin! Đây chỉ là ý nghĩ của người tiễn giải thích về tình cảm trựơng phu đã trỗi dậy trong người ra đi. Một cuộc tiễn đưa đầy kịch tính; kịch tính trong tình cảm, trong mâu thuẫn giằng xé giữa chí lớn, tình riêng. Một cuộc tiễn đưa hàm chứa một cuộc tiễn đưa, hay nói cách khác, hai cuộc tiễn đưa dồn nén, thử thách trong mộc cuộc tiễn đưa. Nhưng cuối cùng chí lớn đã thắng. Người trượng phu hôm nay, con người được thức tỉnh bởi lí tưởng nhân đạo, cá tính, không còn có thể ra đi thanh thản, nhẹ nhàng như ngày xưa nữa! Li khách đã ra đi trong tình cảm luyến tiếc sâu xa.

Nhà thơ sử dụng đầu đề "Tống biệt hành" rất cổ kính, có lẽ chỉ để nhân mạnh cái giống và cái khác với người xưa. Đầu đề này có tác dụng đánh dấu xu hướng phong cách hoá cổ kính của bài thơ. Với đầu đề này, người tiễn tự xưng là "ta", người đi được xưng là "li khách", những lời khảng khái cũng được nói lên một cách thích hợp. Hình như người ra đi muốn mượn cái khí thế, lời lẽ ngang tàng của trượng phu xưa để nâng đỡ chính mình. "Hành" vốn là một thể thơ thịnh hành vào thời Hán Nguỵ Lục Triều ở Trung Quốc, có đặc điểm là tự do, phóng khoáng, không gò bó, lời thơ gần với lời nói. Vận dụng thể "hành”, Thâm Tâm đã sử dụng nhiều câu hỏi, câu trùng điệp. Câu thơ bảy chữ, nhưng cấu tạo ngắt nhịp tự do. Cả bài đều dùng vần bằng có thanh không dấu, xen với ít vần "trắc", gieo vào lòng người một ý vị bâng khuâng, xốn xang.

Check Also

Phát biểu cảm nghĩ của em về người cha - Văn hay lớp 10

Phát biểu cảm nghĩ của em về người cha – Văn hay lớp 10

Phát biểu cảm nghĩ của em về người cha – Bài làm 1 Đối với …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *