Home / Ngữ văn / Văn phân tích / Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương

Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương

Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương – Bài làm 1

Tác giả Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ xuất sắc nhất của Việt Nam, bà có một số lượng lớn tác phẩm để lại và có một phong cách sáng tác thơ độc đáo chủ yếu là tả cảnh ngụ tình. Hồ Xuân Hương còn được biết đến với hình ảnh của một nữ nhà thơ chuyên viết về thân phận của người phụ nữ, là một người dũng cảm luôn đề cao vẻ đẹp và sự hi sinh của người phụ nữ, đồng thời cũng lên tiếng bênh vực cho họ và phê phán gay gắt chế độ xã hội cũ. Bài thơ Tự Tình được coi là một trong những bài thơ hay nó chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc của chính tác giả và cũng chính là của những người phụ nữ nói chung.

Mở đầu bài thơ Tự Tình với 2 câu thơ vừa tả cảnh nhưng cũng vừa tả hình ảnh của một người phụ nữ, hay cũng có thể gọi là hồng nhan. Nhưng thật tiếc thay, hồng nhan đó lại đang rơi vào hoàn cảnh cô đơn trống vắng giữa đêm khuya u tịnh.

“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

  Trơ cái hồng nhan với nước non”

Cụm từ láy “ Văng vẳng” đã được chính tác giả sử dụng để miêu tả một thứ âm thanh từ phía xa vang lại, mặc cho không biết nó xuất phát từ nơi đâu hoặc dù nó có ở xa nhưng nghe mỗi lúc lại một gần và càng rõ ràng hơn. Khoảng thời gian được nhắc tới chính là “ đêm khuya”- thời điểm mà khiến cho con người dễ rơi vào các cung bậc tình cảm, cảm xúc trạng thái khó tả nhất, đây cũng chính là khoảng thời gian này có một người phụ nữ vẫn đang ngồi đó,không thể yên lòng mà ngủ được vẫn ngồi ở đó để nghĩ ngợi về mọi thứ xung quanh đặc biệt luôn nghĩ về con người cuộc đời của chính. Là một người phụ nữ có nhan sắc mặn mà, nhưng lại được nhà thơ miêu tả “ trơ với nước non ".  Trước khoảng đời rộng lớn, người phụ nữ đó đã nhận ra được thân phận của mình lẻ loi cô đơn, và tiếng âm thanh của trống cầm canh lại càng tô điểm thêm một nỗi buồn trống vắng khó tả, một nỗi buồn tận sâu thẳm trong tim. Bất giác người phụ nữ đó đã tìm đến những chén rượu để giải sầu :

“ Chén rượu hương đưa rồi lại tỉnh

  Vầng trăng xế bóng khuyết chưa tròn”

Cứ mỗi khi có chuyện gì buồn sầu, người xưa thường tìm đến rượu đến trăng để ngỏ bầu tâm sự. Chỉ muốn uống thật say để quên đi muộn phiền, hương rượu nống để quên đi tất cả, nhưng thật nghịch lí, chén rượu khi đưa nên mũi, hương nồng thẳng vào mũi nhưng người muốn say, tâm và suy nghĩ vẫn còn đang rất tĩnh. Không có một nỗi buồn nào biến mất ở đây, mà nó còn làm hiện hữu rõ được nỗi lòng của người phụ nữ ngay lúc này. Hình ảnh vầng trăng xuất hiện nhưng vẫn còn đang bị khuyết, chưa tròn. Phải chăng, đây là ngụ ý cho thân phận cho chính hạnh phúc của tác giả. Là một người tài giỏi nhưng số phận có phần hẩm hiu, chưa một lần được trọn vẹn. Tuổi thanh xuân đã dần đi qua mà hạnh phúc thì vẫn chưa tìm tới bến đỗ:

Xem thêm:  Phân tích bài ca dao "Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta..."

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm tạc chân mây đá mấy hòn”

Hình ảnh rêu xanh được đưa ra đây nhưng cũng mang những dụ ý sâu xa của chính tác giả, rêu là một loại cỏ mỏng manh nhỏ bé nhưng nó lại có một sức sống vô cùng mạnh mẽ, không dừng lại ở đó, ở bất cứ một khu vực nào thì nó vẫn có thể sống tươi tốt dù là điều kiện sống như thế nào đi nữa. Hình ảnh từng đám rêu đâm xuyên ngang qua mặt đất gợi ra cho chúng ta nhiều liên tưởng mạnh mẽ về sự phản kháng quyết liệt cũng như sự chống đối của chính nó với những thứ có thể mạnh mẽ hơn nó. Còn hình ảnh đá thì cũng vậy, đối lập với sự nhỏ bé của các viên đá với sự rộng lớn của đất trời, nó lại càng làm nổi bật lên sức mạnh của những viên đá nhỏ, quả thật thì nó cũng không tầm thường nhỏ bé một tí nào. Sự đồng điệu của thiên nhiên và con người, luôn đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn, nhưng chưa bao giờ đi đến thành công. Một kiếp làm vợ lẽ, cho dù cố thoát ra khỏi nhưng vẫn không thể thoát được. Chính vì vậy mới có 2 câu cuối:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

 Mảnh tình san sẻ tí con con”

Thiên nhiên thuận theo trời đất, xuân đi rồi xuân tới, nhưng với con người thì lại khác, với một người phụ nữ tuổi xuân đã trôi đi rồi thì chẳng bao giờ có thể quay trở lại một lần nào nữa. Thật đáng buồn hơn cho những thân phận hẩm hiu, chờ mong tuổi thanh xuân, chờ mong có một niềm hạnh phúc được trọn vẹn nhưng nào có được. Trước sự cô đơn lẻ loi, chán trường mà tác giả Hồ Xuân Hương đã sử dụng động từ " Ngán", phần nào nói lên được nỗi lòng riêng của thi sĩ bây giờ. Khi mảnh tình thì đang bé lại mà còn phải san sẻ, chia nhỏ ra. Không được hưởng trọn một tình yêu, một hạnh phúc tràn đầy, tới khi tìm được hạnh phúc lại phải san sẻ, quả thật là rất đáng thương. Qua đây thì cũng ngầm ẩn ý về những số phận của phụ nữ, chịu cảnh giường đơn, gối chiếc dưới chế độ cũ không được coi trọng cũng như không có quyền lên tiếng.

Bài Tự tình là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và mang đậm phong cách cũng như tư tưởng của chính tác giả Hồ Xuân Hương, đặc biệt là những vấn đề xoay quanh người phụ nữ thời bấy giờ. Qua bài này, chúng ta cũng thấy được một Hồ Xuân Hương yếu mềm nhưng cũng thật ngang tàng và mạnh mẽ khi dám bộc lộ chính những suy nghĩ của mình.

Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương – Bài làm 2

Tự tình là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, đây là bài thơ tự bày tỏ lòng mình. Như chúng ta cũng biết Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỷ XIX , bà xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha làm nghề dạy học. Thế nhưng, Hồ Xuân Hương không chịu gò bó vào cái xã hội eo hẹp, tù túng mà bà là một người phóng khoáng, đa tài, đa tình, giao thiệp với những nhà văn, tài tử, đi rất nhiều nơi. Nhưng éo le thay, người xưa thường có câu “Hồng nhan bạc phận”, bà cũng phải chịu kiếp số lận đận, éo le, đầy ngang trái trong con đường tình duyên. Các tác phẩm của bà chủ yếu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Người ta thường gọi bà là “Bà chúa thơ Nôm”. Hồ Xuân Hương – hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam.

Xem thêm:  Bình luận lời dạy của Bác "Không có việc gì khó. Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển. Quyết chí ắt làm nên"

Bài thơ Tự Tình mà tôi đề cập đến chính là một trong ba bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương và nó là bài thơ Tự Tình II. Được viết dưới dạng Đường luật  thất ngôn  bát cú . Với lối viết sắc xảo và cũng chính là lời tự bày tỏ lòng mình nên chủ đề bai thơ được hiện lên là một nghịch đối: duyên phận muộn màng, lỡ dở trong khi tác giả cứ lạnh lùng trôi qua. Điều này dẫn đến tâm trạng vừa buồn vừa phần uất, nhưng cuối cùng vẫn đọng lại trong tâm trí của bà.

Để thấy rõ được nội dung chính, ta sẽ đi vào tìm hiểu sâu qua các câu thơ.Bài thơ được viết theo thể thơ đường luật bát cú ngôn nên bố cục gồm 4 phần: 2 câu đề, 2 câu thực, 2 câu luận và 2 câu kết.

Trước hết, tác giả mở đầu với hai câu đề:

“Đêm khuya văng vẳng bóng canh dền

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Khung cảnh được hiện lên là một đêm khuya, khi con người chìm sâu vào giấc ngủ, nhưng cũng chính là lúc người ta đối diện với chính mình và đây cũng là lúc Hồ Xuân Hương nhận ra được cảnh đáng thương của mình. Sự cô đơn, lẻ bóng một mình gắn liền với thời gian, tạo cho người ta một cảm giác thật đáng thương cho thân phận người phụ nữ. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng nghệ thuật  lấy động nói tĩnh: âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống cầm canh để nói lên một không gian tĩnh lặng, vắng vẻ. Chính cái khoảnh khắc ấy, tự soi vào mình, tác giả thấy “trơ” mà đặc biệt nó còn được đặt ở đầu câu, càng thêm nhấn mạnh nối đau, bất hạnh về đường tình duyên, số kiếp “hồng nhan bạc phận” của chính tác giả. “Trơ” ở đây có thể được hiểu là tủi hổ, bẽ bàng. Tiếp theo nó là “cái hồng nhan” ý nói đến dung nhan của người phụ nữ, thường được dùng trong xã hội xưa. Nhưng điều đáng chú ý ở đây, một nhân phẩm, vẻ đẹp của người phụ nữ lại gọi là “cái” gợi cho người đọc thấy được sự rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” trơ với nước non không chỉ là sự cay đắng, tủi hổ mà còn là nỗi xót xa, thấm thía, càng ngẫm càng thương thân. Nhưng chữ “trơ” ở đây một phần cũng có thể hiểu được đó chính là sự gan dạ của Xuân Hương, là sự thách thức .  Để nhấn mạnh điều này, tác giả đã dùng nhịp thơ: 1/3/3 để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng.

Nối tiếp hai câu đề, tác giả viết:

Xem thêm:  Câu chuyện ý nghĩa giữa ong và bướm

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn”

Với hai câu thơ thực trên, hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ được hiện lên rõ hơn. Khi sầu, người ta thường lạm bạn với rượu, để có thể quên đi mọi thứ không vui, những nỗi đau. Thế nhưng “say lại tỉnh” làm nỗi buồn không thể nguôi được, Đây chính là một vòng quay luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành một trò đùa, càng say càng tình, càng cảm nhận nỗi đau của thân phận. Câu thơ là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm trạng. Vì vậy, tạo nên sự đồng nhất giữa tâm trạng và cảnh “ trăng” sắp tàn “bóng xế” và vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân, cái tuổi đẹp nhất của người con gái đã trôi qua mà nhân duyên vẫn chưa trọn vẹn. Gợi lên một nỗi sầu lẻ bóng.

Tiếp tục hướng về ngoại cảnh, lấy thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng, nỗi lòng của mình, Hồ Xuân Hương viết:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Hai câu luận ở trên được tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên, nhưng đó cũng chính là tâm trạng của con người. Rêu và đá là hai hình ảnh được hiện lên là những vật yếu mềm, không chịu chấp nhận sự thấp bé ấy, đã vươn lên bằng mọi cách, vượt qua những cản trở (mặt đất, chân mây) để chứng tỏ mình. Các động từ mạnh: xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ: ngang, toạc gợi cho người ta thấy sự ngang ngạnh, phẫn uất. Nó không chỉ thể sự phẫn uất mà còn nói lên một phần của sự phản kháng. Cũng có thể cho người đọc ngầm hiểu  Hồ Xuân Hương với sức sống mãnh liệt ngay cả khi đau buồn nhất.

Khép lại bài thơ với hai câu kết:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tý con con”

Hồ Xuân Hương đã có cách dùng từ rất độc đáo “xuân” tức là mùa xuân, tuổi xuân, “ngán” tức là ngao ngán, chán. Bên cạnh đó từ “lại” chỉ sự trở lại một cách nhanh, sợ sự quay trở lại. Theo quy luật của tạo hóa, mừa xuân qua rồi sẽ trở lại. Nhưng mỗi mùa xuân qua đi lại mang theo tuổi xuân của con người và mãi không trở lại. Sự trở lại chính là sự ra đi của tuổi xuân.  Tác giả đã quá ngán ngẩm với cuộc đời éo le. Với lối nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào những điều bé nhỏ, làm cho nghịch cảnh éo le hơn. Mảnh tình đã nhỏ bé lại còn phải san sẻ “tý con con” tạo nên một cảm giác xót thương. Đây cũng chính là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa. Hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp.

Như vậy, bài thơ Tự Tình đã hiện lên với những hình ảnh giản dị mà đặc sắc, hình ảnh giàu sức gợi cảm, tinh tế từ đó nói lên tâm trạng của chủ thể. Bài thơ hiện lên cả bi kịch và khát vọng sống hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Trong những lúc buồn tủi, bế tắc, người phụ nữ cố vươn lên nhưng lại vẫn bị rơi vào cái vòng quay luẩn quẩn, tù túng của xã hội đương thời.

Check Also

Phân tích bài thơ Thu Điếu (Câu cá mùa thu) của tác giả Nguyễn Khuyến

Phân tích bài thơ Thu Điếu (Câu cá mùa thu) của tác giả Nguyễn Khuyến

Đề bài: Phân tích bài thơ Thu Điếu (Câu cá mùa thu) của nhà thơ …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *